Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu cho văn học Việt Nam thời chống Mĩ, cũng là “người mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc) cho công cuộc đổi mới văn học từ sau 1975. Nhà nghiên cứu hàng đầu Nga Ni Culin nhận xét: “Các nhân vật của Nguyễn Minh Châu trước 1980 được Nguyễn Minh Châu tắm rửa sạch sẽ, được bao bọc trong bầu không khí vô trùng”. Ta có thể thấy điều ấy qua nhân vật Nguyệt trong “Trăng sáng”. Giai đoạn sau này, nổi bật là truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” mang nhiều cảm hứng thế sự cùng những triết lí nhân sinh hơn. Nhưng quan điểm sáng tác của ông là “gắng đi tìm các hạt ngọc còn ẩn giấu trong bề rộng tâm hồn con người” thì không thay đổi. Nhân vật trung tâm của tình huống truyện nghịch lý trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” chính là người đàn bà hàng chài. Từ nhân vật này, nhà văn bộc lộ tấm lòng nhân đạo và gửi gắm những bức thông điệp về nghệ thuật và cuộc đời. Đọc tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” ta thấy nhân vật người đàn bà hàng chài được nhà văn giới thiệu là người đàn bà trạc ngoài 40. Và khi đề cập đến nhân vật này Nguyễn Minh Châu không gọi bằng một cái tên cụ thể nào cả mà gọi một cách phiếm định: “mụ”, “người đàn bà hàng chài”…Việc nhà văn không đặt tên cho nhân vật của mình không phải ngẫu nhiên vô tình mà đó là một dụng ý nghệ thuật sâu xa: Ông muốn nhấn mạnh đây chỉ là một trong vô số những người đàn bà đau khổ, bất hạnh, cần cảm thông sẻ chia mà thôi. Người đàn bà hàng chài mang một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển với những nét thô, mặt rỗ “khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như buồn ngủ. Đây chính là hình ảnh một người lao động lam lũ và đau khổ. Có lẽ gánh nặng của cuộc mưu sinh đầy sóng gió trên biển cả đã ấy đi tất cả của chị: sinh lực, niềm vui và sức sống. Sự nghèo khổ nhọc nhằn đến mức nhếch nhác, thảm hại còn hiện rõ trong chi tiết miêu tả tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng. Sự khốn khổ của chị còn hiện ra ngay trong dáng vẻ: ” sợ sệt, lúng túng” khi ở tòa án, “tìm đến một góc tường để ngồi”. Thậm chí khi Đẩu phải mời đến lần thứ hai chị mới “rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghé và cố thu người lại”. Có lẽ đó là dáng vẻ của một con người tội nghiệp luôn thấy sự có mặt của mình trong cuộc đời này là một phi lí, luôn mặc cảm, tự ti và do đó muốn giảm thiểu sự vướng víu, phiền phức đến khó chịu mà mình có thể gây ra cho mọi người xung quanh. Nguyễn Minh Châu không chỉ dừng lại ở vẻ ngoài của nhân vật mà ngòi bút thấm đẫm tinh thần nhân đạo của ông đã lách thật sâu để khám phá cho được cái mạch ngầm hiện thực về số phận bất hạnh của người đàn bà hàng chài. Ấn tượng lớn nhất về sự bất hạnh mà người đàn bà đưa và cho người đọc chính là thái độ cam chịu nhẫn nhục của chị. Khi đi qua bãi xe tăng hỏng trước lúc đến bên chiếc xe, người đàn bà đứng lại “ngước mắt nhìn ra ngoài ….rồi đưa một cánh tay lên định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống đưa cặp mắt nhìn xuống chân”. Có thể nhận thấy đây là nơi quá quen thuộc với chị, một sự quen thuộc khủng khiếp bởi những trận đòn đã thành lệ của người chồng: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cặp mắt nhìn xuống chân mệt mỏi như một kẻ tội đồ chờ đợi một hình phạt không tránh khỏi. Khi bị đánh dã man, người đàn bà chịu đòn với vẻ cam chịu nhẫn nhục, đó là thái độ của một con người đang nhẫn nhục thực hiện nghĩa vụ đau khổ của mình, không oán thán, không bất bình, không né tránh. Người đàn bà hàng chài không chỉ bị hành hạ về mặt thể xác, mệt mỏi sau những đêm thức trắng kéo lưới, không chỉ chịu đựng những đau đớn từ những trận đòn tàn bạo của người chồng vũ phu mà còn bị giày vò nặng nề về những đau đớn tinh thần, về sự non nớp lo sợ con cái bị tổn thương khi phải chứng kiến những cảnh đời trái ngang. Mô tả hình ảnh một người mẹ vừa khóc vừa phải “chấp tay vái mấy vái để đứa con để nó đừng phảm phải một tội ác trái luân thường đạo lí”. Nguyễn Minh Châu đã thể hiện nỗi xót thương cho sự đau khổ cùng cực của người đàn bà hàng chài. Chưa hết, chị còn bị gánh nặng cơm áo, cuộc sống nghèo túng đẩy vào cái vòng quẩn quanh bất hạnh. Trước năm 1975 mỗi khi biển động cả nhà toàn ăn xương rồng luộc chấm muối. Khi cách mạng về cuộc sống đỡ đói khổ hơn nhưng nỗi lo cơm áo vẫn còn đó. Từ thân phận người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu muốn gợi ra cho người đọc những suy nghĩ âu lo: cuộc chiến đấu chống lại đói nghèo tăm tối và bạo lực còn gian nan lâu dài hơn cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Và chừng nào còn chưa thoát khỏi cuộc sống đói nghèo chừng đó con người vẫn phải chung sống với cái xấu, cái ác. Chúng ta đã đổ xương máu trong bao năm qua để giành được độc lập tự do trong cuộc chiến đấu vì quyền sống của cả dân tộc. Nhưng chúng ta sẽ còn phải tiếp tục làm gì đây trong cuộc chiến đấu giành quyền sống của từng con người, làm gì để đem lại cơm ăn áo mặc và ánh sáng văn hóa cho biết bao con người đang đắm chìm trong kiếp sống đói nghèo u tối. Nếu bạn đọc từng yêu nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu thì sẽ thấy không ở đâu yếu tố “thiên nữ tính” lại thăng hoa tuyệt vời như ở người đàn bà rách rưới này. Vẻ đẹp khuất lấp mà người đọc cảm nhận được trước hết ở người đàn bà hàng chài đó là vẻ đẹp sâu sắc từng trải. Nói chuyện với Đẩu và Phùng, người đàn bà hàng chài quê mùa thất học hiểu lẽ đời khiến Đẩu và Phùng trở thành những người nông nổi, hời hợt. Trong khi Đẩu và Phùng bất bình trước người chồng tàn nhẫn, thấy ông ta là kẻ độc ác nhất thì người đàn bà hàng chài đã giúp họ nhận ra bao điều sâu xa của cuộc sống. Chị cho biết: chồng chị vốn là anh con trai hiền lành, cục tính, nhưng rơi vào cuộc sống luẩn quẩn, bế tắc cho nên trở thành kẻ tha hóa, vũ phu tàn nhẫn. Đó là một sự nhìn nhận sâu xa, thấu hiểu lẽ đời. Người đàn chỉ rõ sự thiếu thực tế của Đẩu và Phùng: “Lòng các chú đâu phải là người làm ăn…cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ khó nhọc”. Người đàn bà hàng chài đã chỉ ra một hiện thực tàn nhẫn: họ cần một người đàn ông để chèo chống lúc phong ba sóng gió dù hắn có man dợ, tàn bạo đến đâu. Như vậy, chị đã cho Phùng và Đẩu thấy được sự khó khăn gấp bội của những người đàn bà trong những cuộc mưu sinh trên biển cả, luôn bất cập, tiềm ẩn những hiểm họa, đe dọa. Người đàn bà hàng chài còn chỉ ra sự bất cập trong cuộc sống của Đảng, của chính quyền Cách mạng. Chị cho thấy từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho họ nhưng chẳng ai ở vì không thể bỏ được nghề bởi sự tồn tại của họ gắn chặt với nghề. Tiếng thở dài của Đẩu, câu hỏi băn khoăn, tò mò của Phùng, cảm giác bất lực của hai người khi nhận ra những giải pháp xuất phát từ lòng tốt và thiện chí của họ trở nên phi thực tế. Những điều đó đã tạo ra một đối sánh với người đàn bà hàng chài từng trải, hiểu đời, hiểu người, hiểu những điều có thể và không thể. Sự sâu sắc của chị khiến người đọc cảm phục nhưng cũng xót thương cho một kiếp người. Người đàn bà hàng chài chấp nhận những trận đòn vũ phu độc ác của người chồng không phải vì chị ngu muội. Cũng không phải vì chị có tội lỗi gì với chồng mà chị cam chịu, nhẫn nhục những trận đòn đó không chỉ vì trên thuyền cần một người đàn ông mà còn như một cách giúp người chồng vơi đi những u uất khổ sở chất chứa trong lòng. Đó là cách xử sự của một con người hiểu rõ bổn phận nghĩa vụ của mình và gắng thực hiện cho xong, đâu đó là những bổn phận và nghĩa vụ phi lí. Không chỉ thấu hiểu sót xa cho nỗi khổ của người chồng, người đàn bà hàng chài còn mang một mặc cảm tội lỗi khi cho rằng “giá tôi đẻ ít đi” hoặc “chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”. Nếu Đẩu và Phùng đều kinh ngạc và bất bình thay cho sự cam chịu nhẫn nhục của người vợ bị chồng hành hạ thì khi hiểu được nguyên nhân của thái độ ấy, họ càng kinh ngạc vì sự nhân hậu, vị tha của tấm lòng người đàn bà hàng chài. Tình mẫu tử được người đàn bà ý thức sâu sắc như một thiên tính đương nhiên của người phụ nữ “đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Chính tình thương yêu sâu sắc với con đã khiến chị nhẫn nhục chịu đựng sự tàn nhẫn của người chồng vì muốn có một người đàn ông khỏe mạnh biết nghề cùng mình làm ăn nuôi nấng các con. Cũng vì sợ con tổn thương trước cảnh bạo lực gia đình, chị đã xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh, sợ đứa con làm điều gì dại dột với bố nó, người đàn bà hàng chài đã phải cắn răng gửi đứa con chị yêu thương nhất lên bờ sống với ông ngoại. Ở người đàn bà thầm lặng ấy,” tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài”. Khi đứa con chứng kiến cảnh tàn nhẫn đó, người đàn bà “mếu máo” gọi con rồi “chắp tay vái lấy vái để” ôm chầm nó, bởi chị sợ tình yêu thương, sự ngây thơ non nớt cùng lòng căm giận, u tối trong thằng bé sẽ hành động dại dột. Tiếng khóc của tình thương con và nỗi đau quặn thắt trong trái tim người mẹ, vừa đau đớn vừa xấu hổ nhục nhã. Chị đau đớn vì làm con tổn thương rồi mới đau cho bản thân mình. Khi nhắc đến những lúc hòa thuận trên thuyền “khuôn mặt xám xịt chợt ửng sáng lên như một nụ cười”. Đó là ánh sáng, là vẻ đẹp của tình mẫu tử, mọi niềm vui nỗi buồn đều xuất phát từ ” vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn ngon”. Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà hàng chài là bóng dáng người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, kiên cường chịu đựng, giàu lòng vị tha và đức hi sinh “biết hi sinh nhưng chẳng nhiều lời” – Tố Hữu. Người đàn bà ấy đã để lại một ấn tượng sâu sắc để nhiều năm sau tồn tại, khi nhìn lại “bức ảnh Chiếc thuyền ngoài xa” bây giờ nghệ sĩ Phùng cũng thấy người đàn bà bước ra khỏi tấm ảnh…hòa lẫn với đám đông. Đó là hình ảnh của những con người vô danh khốn khổ trong cuộc sống lầm lũi đời thường. Họ đã kiên cường vượt lên tất cả, không phải vì mình mà là vì những người thân yêu. Qua những nét khắc họa ấn tượng từ ngoại hình dáng vẻ đến cử chỉ, lời nói, hành động,…nhân vật người đàn bà hàng chài đã trở thành một biểu tượng đầy ám ảnh giúp Nguyễn Minh Châu thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc cho truyện ngắn. Đó là niềm cảm thương và nỗi lo âu cho số phận con người bất hạnh bị cầm tù trong đói nghèo, khốn khổ, bạo lực. Đồng thời thể hiện niềm tin yêu trân trọng những phẩm chất tốt đpẹ trong tâm hồn, tính cách những con người luôn sống cuộc sống lòng người nhân hậu, vị tha.
Đề bàihân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. Mở bài Nguyễn Minh Châu là một hiện tượng văn học vừa độc đáo, vừa lớn lao của nền văn học Việt Nam hiện đại vào cuối thế kỷ 20. Ông bước vào nghề văn hơi muộn nhưng sự nghiệp đổi mới trong văn học đã chọn ông để trao cho ông “Ấn Tiên Phong” lãnh chức Đại Tướng quân của Tập đoàn quân Chữ! Nhà văn Nguyên Ngọc đã rất đúng khi cho rằng Nguyễn Minh Châu là “người mở đường tinh anh và tài năng đã đi được xa nhất” ở chặng đầu đổi mới của văn học nước nhà. Trong cơn trở dạ nhiều đau đớn ấy, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cả bản lĩnh và tài năng của mình cho một khát vọng khẩn thiết và mãnh liệt: văn chương cần phải khác. Nơi đó cái đẹp phải là cái “thật”, con người phải được nhìn nhận ở “bề sâu, bề sau, bề xa” của nó. Hàng loạt tác phẩm được viết dưới ý tưởng đó. Trong đó, “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những sáng tác điển hình của ông được viết sau năm 1980. Truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, trải đời và sáng đẹp tình yêu thương, đức hi sinh và lòng vị tha cao cả. Truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Phùng, một nghệ sĩ khao khát khám phá, sáng tạo ra cái đẹp, người luôn lo lắng, trăn trở, suy tư về nhân cách và đời sống con người. Điều đó được thể hiện qua tình huống truyện độc đáo. Thân bài HCST: Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Truyện ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987. GTC: Trong tác phẩm, nhân vật người đàn bà hàng chài chính là tâm điểm trong câu chuyện của Phùng. Nhân vật này chủ yếu xuất hiện trong phát hiện thứ hai của Phùng về chiếc thuyền chài lưới và xuất hiện trong chính câu chuyện cuộc đời chị kể ở toà án huyện. Qua đó, cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc. Tên gọi: Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, NMC đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta.... Khi người đàn bà này xuất hiện ở tòa án huyện để gặp chánh án Đẩu, ta vẫn không biết tên. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà hàng chài này, cũng không phải nhà văn "nghèo" ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam. Ngoại hình:Về ngoại hình, người đàn bà hàng chài có thân hình xấu xí tàn tạ ”trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Vì cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch. Số phận Bất hạnh: Ngoại hình thì vậy, số phận cũng không khá hơn. Dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ... Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ: có mang với một anh hàng chài đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,... Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ thường xuyên cứ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Cứ khi nào lão chồng thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, như đánh một con thú với lời lẽ cay độc "Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ". Quả thực, người đàn bà hàng chài có cả một cuộc đời cơ cực, nhọc nhằn, khốn khổ. Chị là nạn nhân của sự nghèo đói, thất hậu và lạc hậu. Số phận, cuộc đời chị dần dần hiện ra rõ nét khi chị đến toà án huyện. Số phận đầy bi kịch ấy được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ. Phẩm chất, tính cách: Song ẩn bên trong người đàn bà hình dáng bên ngoài xấu xí, thô kệch, chịu bao cay đắng, nhọc nhằn ở cuộc đời là những phẩm chất cao đẹp. Trước hết là sự nhẫn nhục, chịu đựng vì hoàn cảnh. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình. Chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy cũng như không hề có ý định rời bỏ gia đình ấy, rời bỏ người chồng vũ phu của mình. Chị hiểu cơ cực của của cuộc sống mưu sinh đầy cam go trên biển không có người đàn ông: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ. Cách xử sự của người đàn bà là không thể khác được. Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị. Với người đàn bà này, các con là cuộc sống, lẽ sống. Khi tòa án đưa ra giải pháp li dị, chị đã từ chối. Có nghĩa là chị từ chối trút bỏ tấm bi kịch nhục nhã của đời mình. Với người đàn bà này thà bị đi tù, bị đánh đập còn hơn phải bỏ chồng: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, nhưng đừng bắt con bỏ nó”. Lí do bà đưa ra thật đơn giản nhưng cũng thật xót xa: cần có chồng để cùng nuôi mười đứa con. Thì ra sự sinh tồn của những đứa con là nguyên nhân để người đàn bà ấy sống kiếp cam chịu. Tình yêu thương của người mẹ dành cho đàn con chính là sức mạnh để người đàn bà ấy nhẫn nhục: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Người đàn bà đã chủ động nhận về mình mọi đau đớn để đảm bảo sự sinh tồn cho con cái bởi gia đình đông con sống dựa vào nghề sông nước đầy bất trắc. Thậm chí khi bị đánh bà còn chủ động xin chồng thay đổi địa điểm đánh: “Sau này, con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh”. Bà muốn hứng trọn nỗi đau cho riêng mình, không để các con bị tổn thương. Tình yêu thương như một bản năng mãnh liệt ngàn đời được bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc nhất ở người phụ nữ này. Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa. Không những thế, đây còn là người phụ nữ vị tha thánh thiện. Không chỉ yêu thương, hi sinh đến quên mình vì đàn con, ở người phụ nữ này còn có một tấm lòng bao dung, độ lượng đối với chồng. Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn của người vợ, lão từng là: “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Bị chồng đánh đập thô bạo nhưng bà cũng không oán trách vì bà hiểu nỗi khổ của chồng, hiểu cái khổ đã làm người hiền lành trở thành ác độc. Chính cuộc vật lộn mưu sinh đã biến lão trở thành kẻ vũ phu, thô bạo. Người ta làm điều ác nhiều khi không phải vì người ta xấu mà là vì khổ sở. Bà còn hiểu rằng chồng mình vừa là nạn nhân khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho người thân của mình cũng chỉ vì nghèo đói, ít học. Thậm chí bà còn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên nhân khiến cuộc sống của chồng trở nên khốn khổ. Đây quả là người phụ nữ có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, bao dung, độ lượng với chồng Người đàn bà hàng chài tuy thất học nhưng không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Bà hiểu thiện chí của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên bà bỏ người chồng vũ phu, tàn bạo. Song bà càng hiểu hơn cuộc sống trên sông nước. Bà chắt ra từ cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị mặn của đời thường: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”. Cuộc sống thực tế cần có một người đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu tàn bạo. Bà cũng hiểu và tự hào với thiên chức của người phụ nữ: “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Chính vẻ đẹp mẫu tính, đầy hi sinh cao thượng ấy đã tôn vinh người đàn bà với vẻ ngoài xấu xí, thô kệch. Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi, đời thường. Đó những giây phút vợ chồng con cái sống bên nhau vui vẻ, hoà thuận. Vì cái hạnh phúc hiếm hoi, ít ỏi đó phải trả giá bằng những hành hạ, bạo tàn. Niềm vui lớn nhất là của chị là “lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Với những kiếp đàn bà nhọc nhằn đó nói đến niềm vui thật xa xỉ, nhưng sự tận tụy hi sinh cho chồng con chính là niềm vui lớn nhất đối với người phụ nữ. Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng đỡ người đàn bà: “lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một nụ cười”. Đó là triết lí sâu sắc về cuộc sống và con người: Quan niệm hạnh phúc của con người nhiều khi thật đơn giản, khát vọng hạnh phúc thật nhỏ bé mà vẫn nằm ngoài tầm tay. Đánh giá chung:Trên trang viết của Nguyễn Minh Châu, người đàn bà hàng chài là hiện thân của tình yêu thương, đức hi sinh, sự nhẫn nhục của người phụ nữ. Qua người đàn bà hàng chài, ta thấy thấp thoáng bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh "Nhẫn nại nuôi con, suốt đời im lặng Biết hi sinh nên chẳng nhiều lời" [Tố Hữu] Bằng biện pháp đồi lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, đi sâu vào thế giới nội tâm phức tạp, đầy mâu thuẫn của con người, qua nhân vật người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cái nhìn mới mẻ về con người. Ông đã khai thác số phận cá nhân và thân phận con người đời thường, để phát hiện những nét đẹp trong những con người tầm thường, lam lũ. Cả đời, ông đã tâm niệm sáng tác văn học là đi tìm “hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn mỗi con người”. Kết bài Bằng tài năng của một cây bút giàu bản lĩnh, qua cuộc đời của người đàn bà hàng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối của cuộc sống: nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất học, sự tha hóa về nhân cách… những ngang trái, nghịch lý của cuộc sống. Chính số phận của người đàn bà hàng chài như một hồi chuông lay tỉnh chúng ta hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Từ câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống, không thể có cái nhìn một chiều, phiến diện với con người và cuộc sống. Đây cũng là nét mới trong văn xuôi sau năm 1975 mà NMC chính là vị "khai quốc công thần của triều đại văn học mới".
Đề bài: Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu BÀI LÀM Người đàn bà hàng chài là người mang thân phận nhỏ bé, vô danh. Nguyễn Minh Châu đã gọi lên một cách phiếm định bằng nhiều tên gọi khác nhau: người đàn bà hàng chài, mụ, chị ta... Cũng giống như Kim Lân gọi người vợ nhặt trong tác phẩm của mình là "thị", cách gọi của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã hé mở một cuộc đời éo le, nhọc nhằn, một số phận bị vùi dập giữa cuộc sống bộn bề lo toan. Không có tên tuổi cụ thể, một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác, người đàn bà này là đại diện cho những người phụ nữ Việt Nam lam lũ, cực nhọc từ ngàn đời nay. Tuy nhiên, văn học lúc bấy giờ đang được hâm nóng bởi đề tài "hậu chiến", mở ra hình tượng người đàn bà hàng chài là bước tiên phong của Nguyễn Minh Châu trong việc khai thác đề tài đời tư thế sự. Chiếc thuyền ngoài xa Cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô cệch. "Người đàn bà chạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô cệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ". Đây là nhân vật tiêu biểu cho dạng "nhân vật tính cách - số phận" trong sáng của Nguyễn Minh Châu. Ngoại hình của chị mang dấu ấn của cuộc đời khốn khổ, đặc biệt là chi tiết "khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ". Không cáu gắt, chị âm thầm chịu đựng những trận đòn từ người chồng, đó là dấu hiệu của sự tê liệt về ý thức hay nhấn mạnh sự cam chịu của người đàn bà trước những đắng cay tủi hờn mà người chồng vũ phu gây ra? Chiếc thuyền ngoài xa Một chi tiết bất ngờ, thằng Phát đã chạy xổ đến giật chiếc thắt lưng từ tay của cha mình. Đó là cách mà thằng bé bảo vệ mẹ mình nhưng nó cũng làm người mẹ khổ đau ấy bị dày vò: "Miệng mếu máo gọi, người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để rồi lại ôm chầm lấy". Những trận đòn roi của bố không thể che mắt được thằng bé, dù người mẹ đã hết sức che chắn (xin chồng đừng đánh mình trên thuyền, trước mặt con cái). Cái kết cục kia khiến chị vừa đau đớn, vừa vô cùng xấu hổ nhục nhã. Người đàn bà ấy nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng chịu đựng mọi đau đớn tất cả vì những đứa con. Chị không muốn đàn con phải nhìn thấy cảnh cha đánh mẹ, không muốn đem lại cho đứa con những rạn vỡ trong tâm hồn. Chiếc thuyền ngoài xa Người đàn bà ấy không chỉ cam chịu, nhẫn nhục mà còn là người sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Chị chấp nhận, không kêu van, không chốn chạy. Khi được đề nghị giúp đỡ thì "quý tòa bắt tội con cũng được, phải tù cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó". Chị ý thức được thiên chức của người phụ nữ: "ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn". Trong cuộc mưu sinh đầy cam go: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Sự cần thiết của việc có người đàn ông làm chỗ dựa, để chèo chống khi phong ba bão táp cùng nuôi dạy các con: "đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, không thể sống cho mình như trên đất được". Chị "phải sống cho con chứ không phải sống cho mình". Nguyên nhân sâu sa của sự cam chịu chính là sự thương con vô bờ bến của chị. Hãy quan sát cách nói chuyện ta sẽ hiểu hơn về người phụ nữ khổ đau ấy. Lúc đầu người đàn bà xưng con, thưa quý tòa, giọng van xin thảm hại "con lạy quý tòa"...Chú ý không chỉ nói mà còn làm: chắp tay lạy vái lia lịa. Nhưng sau đó cách nói năng và cử chỉ thay đổi: không cúi ngục xuống nữa, mà ngẩng lên mà nhìn thẳng vào quý tòa, với cách của một người tự chủ (lần lượt từng người một); đổi xưng hô thành chị với các chú. Chiếc thuyền ngoài xa Người đàn bà ấy còn là người giàu lòng vị tha. Chị hiểu được trước đây chồng vốn là anh con trai cục tính nhưng hiền lành, cũng nghĩ cho vợ con nhưng rồi cuộc sống mưu sinh khổ nhọc làm cho anh ta tha hóa. Trong thâm tâm chị, những nỗi đau đớn mà mình gánh chịu xứng đáng như thế vì bởi chị...đẻ nhiều con quá. Điều đó đồng nghĩa với cái đó, cái nghèo khổ còn bám riết lấy gia đình này. Trong lời thú tội ngậm ngùi, chân thật và tê tái của chị, có những câu hỏi không dễ trả lời, những mâu thuẫn khó giải thích: để yêu thương và sống qua muôn nỗi khó khăn, cơ cực, đôi khi người ta phải chấp nhận tàn nhẫn, tha hóa, phi đạo đức. Chị cho rằng chồng cũng không hẳn hoàn toàn xấu. Có lẽ cuộc sống đói nghèo, vất vả, quẩn quanh bao nhiêu lo toan, cực nhọc đã biến "anh con trai cục tính nhưng hiền lành" xưa kia thành một người chồng vũ phu, một lão đàn ông độc ác. Cứ khi nào thấy khổ quá là lão đánh vợ, đánh như để giải tỏa uất ức, để trút cho sạch nỗi tức tối, buồn phiền. Chiếc thuyền ngoài xa Qua hình ảnh người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu không chỉ kín đáo thể hiện mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc đời mà còn đặt ra vấn đề cần nhìn nhận, đánh giá con người và cuộc sống một cách đúng đắn. Cần phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều, phải "cố tìm mà hiểu" để phát hiện ra bản chất tốt đẹp của con người, phát hiện ra những uẩn ức, những uẩn khúc và nghịch lí của cuộc đời. Nhà văn trân trọng và nâng niu vẻ đẹp tâm hồn đáng quý của người dân lao động, nhất là vẻ đẹp của tình yêu thương và đức hi sinh. Nhà văn cũng phê phán mạnh mẽ sự ngu muội của con người khi hành hạ người thân một cách vũ phu tàn nhẫn. Tất cả làm nên tư tưởng nhân đạo thâm trầm, sâu sắc và mới mẻ của truyện ngắn này.
Đề bài: Phân tích nhân vật người đàn bà làng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Bài làm: Nguyễn Minh Châu (1930-1989) được coi là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới với tất cả tâm huyết, tài năng cũng như khát vọng sáng tạo chân chính và bản lĩnh dũng cảm. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa được ông sáng tác năm 1983, in lần đầu trong tập Bến quê (1985), sau được in riêng trong tập truyện cùng tên. Truyện ngắn này tiêu biểu cho xu hướng chung của văn học Việt Nam thời kì đổi mới: hướng nội, chú ý khai thác số phận cá nhân và thân phận con người trong cuộc sống đời thường. Nổi bật trong tác phẩm chính là hình ảnh người đàn bà hàng chài. Tác phẩm kể về chuyến đi của một nghệ sĩ nhiếp ảnh đến một vùng biển ở miền Trung, cũng là nơi ngày xưa anh từng chiến đấu, để chụp ảnh nghệ thuật làm ảnh lịch. Một buổi bình minh, nhiếp ảnh gia Phùng đã bất ngờ thu vào ống kính hình ảnh tuyệt vời - Chiếc thuyền ngoài xa. Nhưng khi chiếc thuyền cập vào bờ, Phùng tình cờ chứng kiến một bi kịch nghiệt ngã, cay đắng xảy ra trong một gia đình ngư dân: người chồng vũ phu, đánh vợ như một thói quen, phản ứng dữ dội của đứa con trai và sự cam chịu đến tội nghiệp của người vợ. Kết thúc câu chuyện là nỗi ám ảnh đầy day dứt không thôi của người nghệ sĩ nhiếp ảnh khi mỗi lần nhìn bức ảnh đen trắng chụp Chiếc thuyền ngoài xa là anh lại thấy như người đàn bà vùng biển ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh với tất cả những hình ảnh chân thực nhất, sống động nhất như anh đã từng thấy. Nhân vật người đàn bà hàng chài trạc bốn mươi tuổi, thân hình “cao lớn với những đường nét thô kệch”, “rỗ mặt”, xuất hiện với “khuôn mặt mệt mỏi”, hình dáng gợi ra cuộc đời lam lũ, với “tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng”. Khi khắc họa hình ảnh người đàn bà, tác giả chú ý tập trung vào đôi mắt của bà: khi chuẩn bị cho cho chồng đánh bà “đưa cặp mắt nhìn xuống chân”, khi đối thoại với chánh án bà lại “đưa cặp mắt đầy vẻ mệt mỏi nhìn ra ngoài bờ phá” và khi bắt đầu kể chuyện về đời mình thì “con mắt ấy như đang nhìn suốt cả đời mình”. Chi tiết ấy như muốn nhấn mạnh với người đọc: trong con người này chứa đựng một nội tâm sâu thẳm vô cùng. Hoàn cảnh riêng của bà đầy bi kịch: kém nhan sắc, trót lầm lỡ khi trẻ dại, lại lấy lại người chồng vũ phu, đánh vợ thành thói quen, như một cơn nghiện cần giải tỏa, đều đặn “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Bất kể lúc nào thấy khổ quá, người chồng lại xách vợ ra đánh. Bà bị đánh ở trên thuyền, rồi khi con cái lớn lên, bà xin người chồng đưa lên bờ mà đánh. Hơn thế, cuộc sống dân chài làm bạn thường xuyên với nỗi cơ cực, nhiều khi “ông trời làm động biển suốt hàng tháng” nên có khi “cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”. Đã vậy, bi kịch lớn nhất đời bà có lẽ chính là đứng giữa một người chồng vũ phu và một đứa con vì bảo vệ mẹ mà sẵn sàng đánh lại cha. Khi đứa con xuất hiện để bênh vực mình, người mẹ ngỡ suốt đời sống trong nhẫn nhục câm lặng ấy cũng chỉ đau đớn thốt lên mấy tiếng: “Phác, con ơi!” và “chắp tay vái mấy vái để” đứa con đến gặp chánh án Đẩu, bà lộ rõ vẻ “sợ sệt, lúng túng”, đến cả hành động cũng như thu khép lại trong sự sợ sệt, sợ hãi, rụt rè: “Trong phong đầy bàn ghế” nhưng vẫn “tìm một góc tường để ngồi”; khi chính án mời đến lần thứ hai bà “mới dám rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu người lại”. Đọc đoạn văn bà bị chồng đánh, ai cũng thương bà, muốn bà mau chóng được giải thoát khỏi cảnh hành hạ vũ phu của người chồng. Nhưng rồi khi được vị chánh án khuyên hãy li hôn, thật bất ngờ khi bà “hướng về phía Đẩu, tự nhiên chắp tay lại vái lia lịa” và nói: “ Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Thậm chí, bà có những suy nghĩ rất tiêu cực: “Cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật” hoặc “giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”. Đáng nói hơn, bà đành chối bỏ một cuộc sống mới mà khi cách mạng thành công đã mang lại vì theo bà “làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lái võ? Từ ngày cách mạng về cách mạng đã cấp đất cho cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!”. Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản, chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng. Nhưng nếu nhìn vấn đề một cách thấu suốt sẽ thấy suy nghĩ và xử sự của bà là không thể khác được. Bà thầm lặng chịu đựng mọi đơn đau khi bị chồng đánh, bà coi đó là lẽ đương nhiên đơn giản, bởi trong cuộc sống mưu sinh đầy cam go, trên chiếc thuyền kiếm sống ngoài biển xa cần có một người đàn ông khỏe mạnh và biết nghề, tất cả chỉ vì những đứa con của bà cần được sống và lớn lên. Chỉ qua những lời giãi bày thật tình của người mẹ đáng thương đó mới thấy nguồn gốc mọi sự chịu đựng, hi sinh của bà là tình thương vô bờ đối với những đứa con: “…đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa”, “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không phải sống cho mình”. Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đuợc ăn no…”, “trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”. Những lời nói, ý nghĩ trên toát ra niềm yêu đời da diết, một nghị lực sống và một đức hi sinh, vị tha đáng quí biết bao. Đó cũng là điều giải thích tại sao người đàn bà ấy sống nhẫn nhục, chịu đựng, không muốn li hôn chồng, để phải rời con thuyền, xa những đứa con. Ẩn đằng sau sự nhẫn nhục ấy là một bản năng sinh tồn mãnh liệt và một tấm lòng hi sinh rất đáng thương. Cũng rất bất ngờ, trong câu chuyện bà “đột nhiên thốt lên bằng một giọng khẩn thiết: (…) các chú đâu có phải là người làm ăn…cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Người đàn bà khốn khổ ấy đã không chối bỏ người đàn ông, dù trong lòng đau đớn khi hàng ngày phải chịu những trận đòn, phải chứng kiến cảnh hai cha con đối xử với nhau như kẻ thù, phải chấp nhận cuộc sống đương đầu nơi đầu sóng ngọn gió. Từ đó, với một “điệu bộ khác, ngôn ngữ khác”, “mất hết cái vẻ ngoài khúm núm, sợ sệt”, bà kể lại chuyện đời mình cho chánh án và Đẩu và nhiếp ảnh gia Phùng nghe. Khi Đẩu hỏi: “Trên thuyền phải có một người đàn ông…, dù hắn man rợ, tàn bạo?” thì bà đã đáp: “Phải (…) cũng có khi biển động sóng gió chứ chú?”. Lênh đênh nhiều năm tháng trên biển nên bà hiểu biển có lúc hiền hòa, cũng có khi dữ dội. Gắn cả cuộc đời mình trên con thuyền mưu sinh với chồng để nuôi đàn con khôn lớn, bà hiểu số phận mình giống như biển vậy, có lúc êm đềm, khi nổi bão giông. Hơn nữa, bà thấu hiểu hành động vũ phu của chồng cũng vì những lí lẽ riêng rất đời: gia đình nghèo khổ, con cái nheo nhóc, không gian sống tù động đã biến một “anh con trai cục tính, nhưng hiền lành” thành một gã đàn ông thô bạo, dã man. Ấn tượng mà nhân vật này gieo vào chúng ta chính ở chỗ bà là một thực thể sinh động của cuộc đời và cách sống, cách suy nghĩ của bà có tác động mạnh mẽ, sâu sắc giúp cho hai nhà tri thức bừng tỉnh. Với người nghệ sĩ nhiếp ảnh, cuộc đời bà giúp anh nhận ra cái toàn thiện, toàn mĩ của nghệ thuật phải là sự hài hòa vẻ đẹp thiên nhiên với sự sống của con người.Với vị chánh án huyện, bà giúp anh vỡ ra một chân lí rằng cuộc đời không phải lúc nào cũng chiều theo mong muốn chủ quan của chúng ta. Dẫu có những yếu tố tiêu cực, hạn chế trong suy nghĩ, hành động song nhân vật vẫn đáng để chúng ta chia sẻ, cảm thông. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam sâu sắc, nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh. Nội dung sâu sắc trên được chuyển tải bằng cách khắc họa nhân vật tinh tế; nghệ thuật xây dựng cốt truyện độc đáo dựa trên tình huống nhận thức với những nghịch lí mang ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống; ngôn ngữ linh hoạt đã làm nên một tác phẩm đầy ấn tượng, vừa mang đậm hơi thở thời đại, vừa thể hiện vẻ đẹp riêng trong văn xuôi của Nguyễn Minh Châu. Đằng sau hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp là cuộc sống đầy khắc nghiệt, dữ dội và những số phận con người vật vã trong cuộc mưu sinh; hành trình tìm kiếm hạnh phúc không hề đơn giản thế nhưng trong cuộc sống nghèo khổ, chật vật vẫn toát lên vẻ đẹp của một sự hy sinh vô bờ bến, vẻ đẹp của tình yêu thương. Và đằng sau những phát hiện của người nghệ sĩ là bao nhiêu yêu cầu đặt ra với nghệ thuật, với người sáng tác. Những điều ấy khiến tác phẩm này có một chiều sâu đặc biệt, có sức sống mãnh liệt lâu bền vượt qua qui luật của thời gian.